Biên niên kỷ cuộc chiến Chiến_tranh_Iran-Iraq

Lý do Iraq gây chiến và mục tiêu của cuộc chiến

Cái cớ gây chiến của Iraq là vụ ám sát hụt ngoại trưởng nước này Tariq Aziz ở miền Nam Iraq. Saddam Hussein cáo buộc "các điệp viên Iran" là thủ phạm.

Sông Shatt al-Arab nằm trên biên giới Iran–Iraq

Từ tháng 3 năm 1980, quan hệ giữa hai nước đi xuống nghiêm trọng, Iran đơn phương giáng cấp quan hệ ngoại giao xuống mức đại biện, rút đại sứ về nước và yêu cầu phía Iraq có hành động tương ứng. Căng thẳng dâng cao vào tháng 4 khi xảy ra vụ ám sát phó thủ tướng Iraq Tariq Aziz và 3 ngày sau là vụ đánh bom nhằm vào đoàn tang lễ trên đường đến nghĩa trang mai táng những sinh viên thiệt mạng trong vụ tấn công trước đó. Iraq đổ lỗi cho Iran đứng sau các vụ việc trên và tháng 9 thì nước này bắt đầu tấn công.[14]

Ngày 17 tháng 9, trong một bài phát biểu trước quốc hội, Saddam Hussein nói "Những hành động thường xuyên và rõ ràng của Iran vi phạm chủ quyền của Iraq...đã khiến cho Hiệp định Algiers 1975 không còn giá trị... Dòng sông này (sông Shatt al-Arab)...phải được trả lại cái tên A-rập mà nó đã mang suốt chiều dài lịch sử và (Iraq)phải được trả lại toàn bộ các quyền chủ quyền đối với dòng sông.",[15]

Các mục tiêu của Iraq khi xâm lược Iran:

  1. Kiểm soát hoàn toàn sông Shatt al-Arab
  2. Chiếm các đảo gồm: Abu Musa và 2 đảo mang tên Greater and Lesser Tunbs thay cho UAE.
  3. Sáp nhập vùng Khuzestan vào Iraq.
  4. Lật đổ chính quyền cách mạng Hồi giáo ở Iran[cần dẫn nguồn]
  5. Ngăn chặn sự lan tràn của Cách mạng Hồi giáo trong khu vực.

Tháng 9 năm 1980: Iraq tấn công

Ngày 22 tháng 9 năm 1980 Iraq mở cuộc tấn công toàn diện vào Iran.Vào ngày này, không quân Iraq oanh kích vào 10 sân bay trong nội địa Iran nhưng không đạt được mục tiêu vô hiệu hóa không quân Iran ngay trên mặt đất.[16] Ngày hôm sau, Iraq bắt đầu mở cuộc tấn công trên bộ, với ba mũi tiến công cùng lúc trên một mặt trận dài 644 km.[16] Theo Saddam Hussein mục đích của cuộc chiến là nhằm làm suy yếu phong trào của Khomeini và ngăn cản việc "xuất khẩu cách mạng Hồi giáo sang Iraq và các quốc gia Vùng Vịnh Péc-xích khác"[14] Trong số 6 sư đoàn Iraq tham chiến, có 4 sư đoàn tấn công tỉnh Khuzestan, nằm ở rìa phía nam của biên giới 2 nước, chia cắt vùng sông Shatt al-Arab khỏi phần còn lại của Iran và thiết lập một vùng an toàn trên bộ.[16] Hai sư đoàn còn lại tấn công vào khu vực bắc và trung phần của biên giới nhằm ngăn chặn quân Iran phản công vào lãnh thổ Iraq.[17] Hai trong số 4 sư đoàn Iraq hoạt động ở gần vùng biên giới phía Nam (1 sư đoàn cơ giới, 1 sư đoàn thiết giáp) bắt đầu bao vây chiến lược hai thị trấn quan trọng là AbadanKhorramshahr.[16] Hai sư đoàn thiết giáp còn lại bảo vệ khu vực tứ giác Khorramshahr-Ahvaz-Susangerd-Musian nhằm tiếp tục bao vây.[16] Ở mặt trận trung tâm, quân Iraq chiếm Mehran, thọc sâu vào vùng đồi núi thuộc rặng núi Zagros. Và để ngăn chặn khả năng quân Iran dùng con đường đánh Iraq truyền thống trước đây là Tehran–Baghdad, quân Iraq đóng ở một số vị trí nằm trước vùng Qasr-e-Shirin.[17] Ở mặt trận phía Bắc, quân Iraq cố gắng thiết lập phòng tuyến Suleimaniya để bảo vệ tổ hợp lọc dầu Kirkuk.[17]

Do quân chính quy Iran và lực lượng vệ binh cách mạng Iran (Pasdaran) hoạt động độc lập nên quân Iraq không hề phải chạm trán với sự kháng cự có phối hợp nào.[17] Ngày 24 tháng 9, Hải quân Iran tấn công Basra phá hủy hai kho dầu gần thành phố cảng Fao của Iraq. Điều này đã là giảm khả năng xuất khẩu dầu của Iraq.[18] Tháng 9, không quân Iran bắt đầu không kích các mục tiêu quan trọng chiến lược của Iraq bao gồm: các cơ sở lọc dầu, đập nước, các nhà máy hóa dầu và lò phản ứng hạt nhân gần Baghdad.[18] Tính đến ngày 1 tháng 10 thành phố Baghdad đã phải gánh chịu 8 trận không kích.[18] Để trả đũa, máy bay Iraq oanh tạc các mục tiêu của phía Iran.[18] Lực lượng vệ binh cách mạng Iran chiến đấu "hăng hái và ngoan cường"[19] và là lực lượng chủ lực trong chiến đấu.[20] Ngày 24 tháng 10, Khorramshahr bị chiếm[19] đến tháng 11 Saddam ra lệnh tấn công DezfulAhvaz,[18] nhưng quân Iraq không chiếm được hai thành phố này.[18]

Iraq huy động 21 sư đoàn cho cuộc tấn công này trong khi phía Iran kháng cự với 13 sư đoàn quân chính quy và 1 lữ đoàn. Trong số các sư đoàn nói trên chỉ có 7 sư đoàn triển khai tới biên giới.

Cuộc "tiến công chớp nhoáng" này diễn ra khi quân đội Iran vẫn còn thiếu tổ chức, diễn ra trên một mặt trận rộng lớn kéo từ trục MehranKhorramabad miền trung Iran đến tận Ahvaz, vùng đất giàu tài nguyên dầu mỏ thuộc tỉnh Khuzestan.

Cuộc tấn công của Iraq lâm vào bế tắc

Đến khoảng tháng 3 năm 1981 Iraq bế tắc trong tiến công. Những lần không kích của Iraq hồi đầu cuộc chiến chỉ thành công trong việc phá hủy một phần cơ sở hạ tầng sân bay của Iran chứ không vô hiệu hóa được lực lượng không quân nước này. Không quân Iraq chỉ có thể oanh kích vào nội địa Iran với một số ít máy bay MiG-23BN, Tu-22Su-20, điều này hầu như không hiệu quả với một đất nước rộng lớn như Iran. Không quân Iran phản kích với hàng loạt máy bay chiến đấu F-4 tấn công vào các mục tiêu của Iraq, ít ngày sau không quân Iran đã áp đảo Iraq. Điều này cho phép họ tiến hành không kích các mục tiêu trên bộ bằng máy bay ném bom và trực thăng vũ trang.

Nhân dân Iran thay vì nghe lời phe cựu hoàng lưu vong chống lại chính quyền Hồi giáo, nay họ tập hợp dưới lá cờ dân tộc để kháng chiến. Đến tháng 11, ước tính có đến 200.000 quân được bổ sung cho chiến trường, đa phần là lính tình nguyện.[21] Quân Iraq nhanh chóng nhận ra rằng tiềm lực quân sự Iran không phải là "gần như trống không" như họ nghĩ.

Gần 1 năm kể từ khi Iraq lâm vào bế tắc tháng 3 năm 1981, không có nhiều thay đổi trên chiến trường. Nhưng đến giữa tháng 3 năm 1982 quân Iran phản công đẩy quân Iraq phải rút lui. Đến tháng 6 năm 1982, Iran tái chiếm các vùng đất đã bị mất lúc đầu cuộc chiến. Trận có ý nghĩa đặc biệt trong chiến dịch phản công ở tỉnh Khuzestan là trận giải phóng thành phố Khorramshahr vào ngày 24 tháng 5 năm 1982.

Iraq rút quân nhưng chiến tranh vẫn tiếp diễn

Binh lính Iraq bị bắt làm tù binh tại Khorramshahr

Saddam quyết định rút quân hoàn toàn khỏi Iran để đóng dọc biên giới hai nước.[17] Theo giáo sư về Trung Đông và Địa Trung Hải học Efraim Karsh, Saddam quyết định như vậy vì binh lính Iraq lúc này đã quá mất nhuệ khí để có thể tiếp tục chiếm đóng Iran. Hơn nữa, Iran có thể dùng phòng tuyến bên trong lãnh thổ Iraq gần biên giới để tiếp tục kháng cự.[17] Lấy cái cớ là việc Israel xâm lược Liban (ngày 6 tháng 6 năm 1982) Iraq tuyên bố rút quân và đề nghị Iran ngừng bắn, hai nước sẽ cử quân sang giúp người Palestine chiến đấu ở Liban. Tuy nhiên đề nghị này đã bị phía Iran khước từ.[17] Cuộc rút quân bắt đầu vào ngày 20 tháng 6 và kết thúc hoàn toàn vào ngày 30 tháng 6.[17] Giáo sư Karsh miêu tả quyết định rút quân của Saddam là "một trong những hành động mang tính chiến lược sáng suốt nhất của ông ta trong suốt cuộc chiến".[17]

Một kế hoạch được A-rập Xê-út bảo trợ nhằm kết thúc chiến tranh được phía Iraq đồng ý. Kế hoạch bao gồm: $70 tỉ USD bồi thường chiến phí do các quốc gia A-rập ở vịnh Péc-Xích trả thay cho Iraq và việc triệt thoái hoàn toàn quân Iraq khỏi Iran - những người chỉ trích chính sách của chính phủ Iran gọi đây là một "món hời khổng lồ cho Iran."[22]Iran khước từ kế hoạch này, đưa ra yêu sách phải thay thế chính quyền Saddam Hussein, hồi hương 100.000 người Hồi giáo dòng Shi'ites bị trục xuất khỏi Iraq trước chiến tranh và $150 tỉ USD tiền bồi thường chiến phí. [cần dẫn nguồn]

Ngày 21 tháng 6, Khomeini nêu ra quan điểm Iran nên xâm lược Iraq trong thời gian ngắn. Ngày 22 tháng 6, tổng tư lệnh quân đội Iran Shirazi tuyên bố "tiếp tục đánh cho đến khi lật đổ chế độ Saddam Hussein để chúng ta có thể cầu nguyện ở KarbalaJerusalem".[17] Tuyên bố này mang ý nghĩa tương tự như nhận xét của nhà lãnh đạo Iran Khomeini về vấn đề đình chiến với Iraq: "Không có điều kiện nào ngoài việc chế độ ở Baghdad phải sụp đổ và được thay thế bằng một nền Cộng hòa Hồi giáo."[23]

Cuộc tấn công của Iran, cuộc phòng thủ kịch liệt của Iraq

Dưới khẩu hiệu "Chiến tranh, Chiến tranh tới khi Chiến thắng," và "Con đường tới Jerusalem đi qua Karbala," [24] Iran tiến quân. Một chiến thuật được sử dụng trong cuộc tấn công này đã được biết đến trên toàn thế giới là sự khuyến khích hành động dũng cảm của các chiến binh tình nguyện basij trẻ của Iran những người tìm cách trở thành người tử vì đạo bằng những cuộc tấn công biển người vào các vị trí của Iraq. Những người tình nguyện được khích lệ trước các trận đánh bằng những câu chuyện về Ashura, Trận Karbala, và vinh quang cực đỉnh của kẻ tử vì đạo, và thỉnh thoảng bởi một diễn viên (thường là một binh sĩ lớn tuổi hơn), đóng vai Imam Hossein trên mình một con ngựa trắng, phi dọc theo các chiến tuyến, tạo cho các chiến binh chưa có kinh nghiệm viễn cảnh của "người anh hùng sẽ lao mình vào trận chiến định mệnh trước khi gặp vị Thánh của mình." [25]

Ngày 13 tháng y, các đơn vị Iran vượt biên giới tiến về Basra, thành phố quan trọng thứ hai của Iraq. Tuy nhiên, kẻ thù mà họ phải đối mặt đã giăng ra một lực lượng phòng thủ lớn. Không giống như những lực lượng phòng thủ chuẩn bị vội vàng mà người Iraq từng đưa ra trước Iran trong cuộc chiếm đóng các lãnh thổ bị chinh phục năm 1980–1981, các lực lượng phòng vệ biên giới đã được phát triển rất tốt ngay trước cuộc chiến, và người Iraq đã có thể sử dụng một mạng lưới lô cốt và trận địa pháo dày đặc. Saddam cũng đã tăng gấp đôi quân số Iraq từ 500.000 binh sĩ năm 1981 (26 sư đoàn và 3 lữ đoàn độc lập) lên tới 1.050.000 người (55 sư đoàn và 9 lữ đoàn) năm 1985.[cần dẫn nguồn]

Những nỗ lực của Saddam đã mang lại kết quả. Iran đã sử dụng các chiến dịch phối hợp với kết quả tốt khi tấn công quân đội Iraq trong lãnh thổ của họ, và đã tung ra các cuộc tấn công biển người mang tính biểu tượng với sự hỗ trợ mạnh của pháo binh, máy bay và xe tăng. Tuy nhiên, thiếu hụt đạn dược đồng nghĩa với việc người Iran tung ra các cuộc tấn công biển người mà không có sự hỗ trợ của các nhánh quân đội khác. Ưu thế vượt trội của lực lượng phòng thủ Iraq khiến hàng chục nghìn binh sĩ Iran thiệt mạng trong hầu hết các chiến dịch sau năm 1982, và lực lượng phòng thủ Iraq vẫn giữ được hầu hết các vị trí.

Trong cuộc tấn công Basra, hay Chiến dịch Ramadan, năm cuộc tấn công biển người đã bị chặn lại bởi hoả lực của Iraq. Các binh sĩ trẻ của Iran thiệt hại rất nhiều, đặc biệt khi họ tình nguyện lao ra chiến trường mà không hề có kinh nghiệm, chỉ để dọn đường cho các chiến binh Iran phía sau. Người Iran cũng bị thiệt hại lớn bởi các vũ khí hoá học và hơi cay do phía Iraq sử dụng.

1983–1985: Các cuộc tấn công khác của Iran không thể phá vỡ thế bế tắc chiến lược

Lãnh thổ xa nhất giành được

[26]Sau thất bại của những cuộc tấn công mùa hè năm 1982, Iran tin rằng một cố gắng lớn dọc theo toàn bộ chiều dài mặt trận sẽ mang lại thắng lợi họ đang mong đợi. Ưu thế quân số của Iran sẽ tạo ra một bước đột phá nếu họ tấn công trên mọi khu vực của mặt trận và cùng thời điểm, nhưng họ vẫn thiếu sự tổ chức cho cuộc tấn công kiểu đó. Iran nhận được sự hỗ trợ từ các quốc gia như Bắc Triều Tiên, Libya, và Trung Quốc. Người Iraq có nhà viện trợ hơn như Liên Xô, các quốc gia NATO, Pháp, Anh Quốc, Brasil, Nam Tư, Tây Ban Nha, Italia, Ai Cập, Ả Rập Xê Út, và Hoa Kỳ.

Trong năm 1983, Iran tung ra năm cuộc tấn công lớn dọc theo mặt trận. Không cuộc tấn công nào mang lại kết quả lớn. Lập trường của Khomeini về một cuộc ngừng bắn vẫn không thay đổi.

Tháng 2 năm 1984, Saddam ra lệnh tiến hành các cuộc tấn công không quân và tên lửa vào mười một thành phố ông đã lựa chọn. Cuộc ném bom ngừng lại ngày 22 tháng 2 năm 1984. Iran nhanh chóng trả đũa vào các trung tâm đô thị của đối phương, và những cuộc tấn công qua lại đã được gọi là "cuộc chiến tranh giữa các thành phố" lần thứ nhất. Trong suốt thời gian cuộc chiến, có năm cuộc chiến tranh như vậy.

Các cuộc tấn công vào các thành phố Iran không tiêu diệt được quyết tâm chiến đấu của chính phủ Iran. Ngày 15 tháng 2, người Iran tung ra một cuộc tấn công lớn nhằm vào khu vực trung tâm chiến trường nơi Quân đoàn số 2 của Iraq đã được triển khai. 250.000 lính Iran đối mặt với 250.000 quân Iraq.

Từ ngày 15 đến ngày 22 tháng 2, trong Chiến dịch Bình minh 5, và từ 22 tới 24 tháng 2, trong Chiến dịch Bình minh 6, Iran nỗ lực chiếm thị trấn chiến lược Kut al-Amara và cắt đường cao tốc nối Baghdad với Basra. Việc chiếm đóng con đường này khiến quân đội Iraq gặp khó khăn lớn trong việc cung cấp hậu cần và phối hợp sự phòng vệ, nhưng các lực lượng Iran chỉ vào được cách con đường cao tốc 15 dặm (24 km).

Tuy nhiên, Chiến dịch Khaibar mang lại thắng lợi lớn hơn nhiều. Với một số cuộc tấn công hướng về thành phố Basra quan trọng của Iraq, chiến dịch bắt đầu ngày 24 tháng 2 và kéo dài tới ngày 19 tháng 3. Lực lượng phòng vệ Iraq, luôn ở trong tình trạng chiến đấu từ ngày 15 tháng 2, dường như gần tan vỡ hoàn toàn. Người Iraq đã thành công trong việc ổn định mặt trận nhưng chỉ sau khi quân Iran đã chiếm được một phần đảo Majnun. Dù có sự phản công mạnh mẽ của Iraq cộng với việc sử dụng hơi caykhí độc thần kinh sarin, quân Iran vẫn giữ được vùng đã chiếm đóng và tiếp tục giữ hầu hết chúng cho tới cuối cuộc chiến.[21]

Tháng 1 năm 1985 – Tháng 2 năm 1986: Những cuộc tấn công sớm thất bại của Iran và Iraq

Với các lực lượng vũ trang của mình được cung cấp tài chính từ Ả Rập Xê Út, Kuwait và các quốc gia Vùng Vịnh khác, và những nguồn cung vũ khí dồi dào từ Liên Xô, Trung Quốc và Pháp (cùng với các nước khác), Saddam bắt đầu tiến công ngày 28 tháng 1 năm 1985, lần đầu tiên kể từ đầu năm 1980. Tuy nhiên, cuộc tấn công này không mang lại thắng lợi nào, và quân Iran trả đũa với cuộc tấn công của họ về phía Basra, mã hiệu Chiến dịch Badr, ngày 11 tháng 3 năm 1985. Imam Khomeini hối thúc người Iran khi phát biểu, "Chúng ta tin rằng Saddam muốn biến đạo Hồi thành một sự báng bổ và thuyết đa thần.... nếu Hoa Kỳ giành chiến thắng... và trao chiến thắng cho Saddam, Hồi giáo sẽ nhận một cú đấm như vậy khiến nó không thể ngẩng đầu lên trong một thời gian dài... Vấn đề là sự báng bổ tới Hồi giáo, và không phải là giữa Iran và Iraq." [27]

Tới thời điểm này, sự thất bại của những cuộc tấn công biển người không có hỗ trợ trong năm 1984 có nghĩa là Iran đang tìm cách phát triển một mối quan hệ làm việc tốt hơn giữa quân đội và Pasdaran. Chính phủ Iran cũng tìm cách biến các đơn vị Pasdaran thành các lực lượng chiến đấu quy ước hơn. Cuộc tấn công đã thành công trong việc chiếm một phần của con đường cao tốc Baghdad-Basra từng không đạt được trong Chiến dịch Bình minh 5Chiến dịch Bình minh 6. Saddam trả đũa trước tình hình khẩn cấp chiến lược này bằng những cuộc tấn công khí độc vào các vị trí của Iran dọc theo đường cao tốc và tung ra cuộc 'chiến tranh giữa các thành phố' lần hai với những chiến dịch không kích và bắn tên lửa hàng loạt vào hai mươi thị trấn của Iran, gồm cả Tehran.

Cuộc chiến tàu chở dầu và Hoa Kỳ hỗ trợ Iraq

Cuộc chiến tàu chở dầu bắt đầu khi Iraq tấn công các tàu chở dầu của Iran và các kho chứa dầu tại đảo Kharg năm 1984. Iran trả đũa bằng cách tấn công các con tàu chở theo dầu của Iraq từ Kuwait và sau đó là bất kỳ tàu chở dầu nào của các quốc gia Ả Rập ủng hộ Iraq. Các cuộc tấn công bằng đường không và tàu nhỏ không gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế các quốc gia Vùng Vịnh và Iran chuyển cảng của mình tới Đảo Larak tại Eo Hormuz.[28]

Năm 1982 với những thắng lợi trên chiến trường của Iran, Hoa Kỳ mở rộng ủng hộ Iraq, cung cấp thông tin tình báo, viện trợ kinh tế, bình thường hoá quan hệ với chính phủ (đã ngừng lại trong cuộc Chiến tranh sáu ngày năm 1967), và cung cấp các thiết bị và phương tiện "lưỡng dụng". Các thiết bị lưỡng dụng là các thiết bị như xe tải nặng, xe cứu thương bọc thép và thiết bị viễn thông cũng như công nghệ công nghiệp có thể áp dụng vào quân sự.[29] Tổng thống Ronald Reagan quyết định rằng Hoa Kỳ "không thể để Iraq thua trận trước Iran", và rằng Hoa Kỳ "sẽ làm bất kỳ điều gì cần thiết để Iraq không bị thua trận trước Iran."[30] Tổng thống Reagan đã chính thức hoá chính sách này bằng cách đưa ra Chỉ thị Quyết định An ninh Quốc gia ("NSDD") về hiệu ứng này tháng 6 năm 1982.

Những cuộc tấn công vào tàu bè

Lloyd's of London, một thị trường bảo hiểm của Anh, ước tính rằng cuộc Chiến tranh tàu chở dầu đã làm hư hại 546 tàu chở hàng thương mại và làm thiệt mạng khoảng 430 thuỷ thủ. Chiếm tỷ lệ lớn nhất là các cuộc tấn công của Iran vào các tàu hàng của Kuwait, và vào ngày 1 tháng 11 năm 1986, Kuwait chính thức kêu gọi các cường quốc nước ngoài bảo vệ các con tàu của mình. Liên Xô đồng ý bảo vệ các tàu chở dầu từ năm 1987, và Hoa Kỳ đề xuất bảo vệ cho các tàu chở dầu treo cờ Mỹ ngày 7 tháng 3 năm 1987 (Chiến dịch Earnest WillChiến dịch Prime Chance).[31] Theo luật pháp quốc tế, một cuộc tấn công vào những con tàu như vậy sẽ bị coi là một cuộc tấn công vào Hoa Kỳ, cho phép Hải quân Hoa Kỳ phản ứng. Sự hỗ trợ này sẽ bảo vệ các tàu trung lập đi về phía các cảng Iraq, đảm bảo một cách hiệu quả tiềm lực của Iraq cho cuộc chiến lâu dài.[cần dẫn nguồn]

Cuộc tấn công của Iraq vào tàu chiến Mỹ

Ngày 17 tháng 5 năm 1987, một chiếc máy bay tấn công Mirage F1 của Iraq đã bắn hai quả tên lửa Exocet vào chiếc USS Stark (FFG 31), một tàu khu trục lớp Perry. Quả tên lửa đầu tiên lao vào mạn trái tàu và không nổ, dù nó gây nên đám cháy từ vật liệu đẩy của nó; quả thứ hai lao tới ngay sau đó và hầu như đúng vào vị trí quả thứ nhất và xuyên vào phòng thuỷ thủ, nổ tung. Sức nổ đã làm thiệt mạng 37 thuỷ thủ và làm 21 người bị thương. Đây vẫn là cuộc tấn công thành công duy nhất của tên lửa chống tàu vào tàu chiến Mỹ.[32][33]

Hoạt động quân sự của Hoa Kỳ với Iran

Tuy nhiên, sự chú ý của Mỹ tập trung trên việc cô lập Iran cũng như tự do hàng hải, chỉ trích việc Iran khai thác các vùng biển quốc tế, và tài trợ cho Nghị quyết 598 Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, được thông qua ngày 20 tháng 7, theo đó họ đã chạm trán nhỏ vài lần với các lực lượng Iran. Trong Chiến dịch Nimble Archer tháng 10 năm 1987, Hoa Kỳ tấn công các giàn khoan dầu của Iran để trả đũa vụ tấn công của Iran vào tàu chở dầu Kuwait treo cờ Mỹ Sea Isle City.[31]

Ngày 14 tháng 4 năm 1988, tàu khu trục USS Samuel B. Roberts bị thuỷ lôi Iran gây thiệt hại nặng nề, với 10 người bị thương nhưng không có thiệt mạng. Các lực lượng Hoa Kỳ trả đũa với Chiến dịch Praying Mantis ngày 18 tháng 4, lần tham chiến lớn nhất của các tàu nổi thuộc Hải quân Hoa Kỳ từ sau Thế Chiến II. Hai giàn khoan dầu của Iran, hai tàu và sáu tàu chiến Iran bị phá huỷ. Một máy bay trực thăng của Mỹ cũng lao xuống đất.[31]

Hoa Kỳ bắn rơi máy bay chở khách

Trong quá trình những cuộc hộ tống đó của Hải quân Hoa Kỳ, tàu tuần tiễu USS Vincennes đã bắn hạ Chuyến bay 655 của Iran làm thiệt mạng toàn bộ 290 hành khách và phi hành đoàn ngày 3 tháng 7 năm 1988. Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố chiếc máy bay chở khách đã bị nhầm với một chiếc F-14 Tomcat của Iran, và chiếc Vincennes đang hoạt động ở vùng biển quốc tế ở thời điểm đó và lo ngại rằng nó đang bị tấn công, điều sau này có vẻ không chính xác.[32][34] Tuy nhiên, phía Iran cho rằng chiếc Vincennes thực tế đang trong vùng lãnh hải Iran, và rằng chiếc máy bay phản lực chở khách của Iran đang lượn vòng và tăng độ cao sau khi cất cánh. Đô đốc Hoa Kỳ William J. Crowe cũng thừa nhận trên Nightline rằng chiếc Vincennes đang ở trong vùng lãnh hải Iran khi nó phóng tên lửa. Ở thời điểm đó, thuyền trưởng Vincennes tuyên bố rằng chiếc máy bay của Iran không thông báo danh tính và không trả lời các tín hiệu cảnh báo từ Vincennes. Ngoài Iran, các nguồn tin độc lập khác, ví dụ, sân bay Dubai, đã xác nhận rằng chiếc máy bay có thông báo danh tính cho tàu chiến Mỹ và cũng xác định rằng "chiếc máy bay chở khách đang lấy độ cao và vì thế không thể là một mối đe doạ," thích ứng với tuyên bố của các quan chức Iran.[35]

Theo một cuộc điều tra do chương trình Nightline của ABC News tiến hành, những vật nguỵ trang đã được Hải quân Hoa Kỳ triển khai trong cuộc chiến trong Vịnh Ba Tư để nhử các tàu chiến Iran và tiêu diệt chúng, và thời điểm chiếc USS Vincennes bắn hạ máy bay chở khách Iran, nó đang thực hiện một chiến dịch như vậy.

Năm 1996 Hoa Kỳ bày tỏ sự hối tiếc chỉ với những người vô tội thiệt mạng, và không đưa ra lời xin lỗi chính thức với chính phủ Iran.[32][36]

Việc bắn hạ máy bay chở khách của Iran Chuyến bay 655 của Iran của tàu tuần dương Mỹ USS Vincennes, đã được một học giả Iran nêu ra [ai nói?] như một lý do rõ ràng để Ruhollah Khomeini rút khỏi cuộc xung đột:[37]

Một học giả Iran có mặt tại hội nghị nói một thời điểm thay đổi quan trọng trong cách suy nghĩ của Iran diễn ra với việc bắn hạ chiếc máy bay chở khách của Iran tháng 7 năm 1988 của tàu tuần dương USS Vincennes. Vụ việc này rõ ràng khiến Ayatollah Khomeini kết luận rằng Iran không thể đương đầu với nguy cơ một cuộc xung đột vũ trang mở với Hoa Kỳ và ông quyết định đó là thời điểm để chấm dứt cuộc xung đột.

"Chiến tranh giữa các thành phố"

Tới cuối cuộc chiến, cuộc xung đột trên bộ đã thoái lui trở thành một thế bế tắc chủ yếu bởi không bên nào có đủ lực lượng không quân hay pháo tự hành để hỗ trợ các lực lượng mặt đất tiến công.

Các lực lượng vũ trang khá chuyên nghiệp của Iraq không thể đạt được các tiến bộ trước lực lượng bộ binh đông đảo hơn nhiều của Iran. Người Iran bị áp đảo về pháo kéo và pháo tự hành, khiến xe tăng và binh lính của họ dễ bị thương vong. Và vì thế Iran đã phải đưa bộ binh thay thế cho pháo binh.

Không quân Iraq nhanh chóng bắt đầu các cuộc ném bom chiến lược vào các thành phố của Iran, chủ yếu là Tehran, năm 1985. Để giảm bớt những thiệt hại do ưu thế không quân của Iran, Iraq nhanh chóng quay sang sử dụng các tên lửa Scud và loại tên lửa Al-Hussein kiểu Scud đã được cải tiến. Để trả đũa, Iran bắn các tên lửa Scud có được từ Libya và Syria vào Baghdad. Tổng cộng, Iraq đã bắn 520 tên lửa Scud và Al-Hussein vào Iran và nhận lại 177 quả. Tháng 10 năm 1986, máy bay Iraq tấn công các đoàn tàu và máy bay chở khách dân sự, gồm cả một chiếc Boeing 737 của Iran Air đang đậu tại Sân bay Quốc tế Shiraz.

Để trả đũa Chiến dịch Karbala-5 của Iran, một nỗ lực đầu năm 1987 nhằm chiếm Basra, Iraq tấn công 65 thành phố trong 226 lần xuất kích trong 42 ngày, ném bom các khu dân cư lân cận. Tám thành phố của Iran bị các tên lửa của Iraq tấn công. Các cuộc ném bom làm thiệt mạng 65 trẻ em riêng tại một trường phổ thông ở Borujerd. Người Iran cũng trả đũa lại với những cuộc tấn công bằng tên lửa Scud vào Baghdad và tấn công một trường cấp một tại đó. Những sự kiện này được gọi là "chiến tranh giữa các thành phố".[36]

Hướng tới một sự ngừng bắn

Mujahedin Nhân dân Iran được hỗ trợ Saddam bắt đầu chiến dịch kéo dài mười ngày của họ sau khi chính phủ Iran chấp nhận Nghị quyết 598 của Liên hiệp quốc. Thương vong trong khoảng 2,000 tới 10.000.

Năm 1987 chứng kiến một làn sóng tấn công mới của Iran vào các mục tiêu ở cả miền bắc và miền nam Iraq. Quân đội Iran bị lực lượng phòng vệ được chuẩn bị tốt của Iraq chặn lại ở phía nam trong một trận chiến kéo dài nửa tháng tranh giành Basra (Chiến dịch Bình minh 5), nhưng sau đó đã gặt hài nhiều thành công hơn ở phía bắc khi các Chiến dịch Nasr 4Karbala-10 đe doạ chiếm giữ thành phố Kirkuk giàu dầu mỏ của Iraq và các giếng dầu khác ở phía bắc. Tuy nhiên, các lực lượng Iran không thể củng cố các vị trí đã chiếm được và tiếp tục tiến quân, và vì thế trong năm 1987 ít diễn ra những sự thay đổi chủ. Ngày 20 tháng 7, Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc thông qua Nghị quyết 598 được Mỹ hậu thuẫn, kêu gọi chấm dứt xung đột và quay trở lại các biên giới trước cuộc chiến. Iraq, vốn đã mất nhiều vùng lãnh thổ quan trọng trong cuộc chiến, chấp nhận nghị quyết. Tuy nhiên, Iran không muốn phải trả lại những gì đã giành được khi một cuộc thắng lợi hoàn toàn đã trong tầm tay, và vì thế cuộc chiến lại tiếp tục.[38]

Tuy nhiên tới tháng 4 năm 1988 các lực lượng Iraq đã tái hợp đủ để bắt đầu một loạt các cuộc tấn công gây tàn phá vào Iran và nhanh chóng chiếm giữ được bán đảo al-Faw chiến lược (đã mất năm 1986 trong Chiến dịch Bình minh 8) nhờ sử dụng mạnh các loại vũ khí hoá học, và lãnh thổ bao quanh Basra và cũng tấn công sâu vào lãnh thổ phía bắc của Iran, chiếm được nhiều chiến lợi phẩm.[21] Tháng 7 năm 1988 máy bay Iraq đã thả các quả bom hoá chất cyanide xuống làng Kurdish Iran tại Zardan (như họ đã làm bốn tháng trước đó tại làng Kurdish Halabja của mình). Hàng trăm người chết ngay lập tức, và những người sống sót vẫn bị ảnh hưởng bởi nhiều tác động thể chất và tâm thần. Người Iran trong tâm trạng tức tối đã xem xét tới việc vũ trang các loại vũ khí hạt nhân trên diện rộng, nhưng đã quyết định rằng việc đó vượt quá các khả năng của họ. Sau những thất bại lớn đó, Iran đã chấp nhận các điều khoản của Nghị quyết 598 của Liên hiệp quốc và vào ngày 20 tháng 8 năm 1988 hoà bình được tái lập.

Mujahedin Nhân dân Iran bắt đầu chiến dịch mười ngày của họ sau khi chính phủ Iran đã chấp nhận Nghị quyết 598 của Liên hiệp quốc. Trong khi các lực lượng Iraq tấn công Khuzestan, quân Mujahedin tấn công tây Iran và chiến đấu với Pasdaran để giành Kermanshah. Mọi thắng lợi mà quân Mujahedin giành được đều nhờ sự hỗ trợ trên không của Iraq. Tuy nhiên, dưới áp lực to lớn của cộng đồng quốc tế đòi chấm dứt cuộc chiến, Saddam Hussein rút các máy bay chiến đấu của mình và để mở bầu trời cho các lực lượng không quân Iran triển khai phía sau các trận tuyến của Mojahedin. Chiến dịch chấm dứt với một thất bại cho Mojahedin. Con số thương vong trong khoảng từ 2,000 lên tới 10.000 người.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Iran-Iraq http://74.125.95.132/search?q=cache:R0fbbqLrGmcJ:t... http://www.theaustralian.news.com.au/story/0,20867... http://airtoair.blogfa.com/post-18.aspx http://goliath.ecnext.com/coms2/gi_0199-6662950/Li... http://google.com/search?q=cache:ZlBdwCEy9yAJ:www.... http://docs.google.com/gview?a=v&q=cache:5u7kx8xIb... http://docs.google.com/gview?a=v&q=cache:OYG-qrRsM... http://video.google.com/videoplay?docid=-897958490... http://www.iie.com/publications/opeds/oped.cfm?Res... http://www.investorsiraq.com/showthread.php?p=6796...